Kiến thức rượu vang

Câu chuyện của những giống nho

Câu chuyện của những giống nho

Mỗi một giống đều có tính cách của nó, tính cách ấy thể hiện rất rõ là do thổ nhưỡng và khí hậu nơi mà nó được sinh ra và phát triển. Nhưng rồi qua biết bao sự kiện, nó rời đi khỏi nơi vốn thuộc về nó... từ đó nó thay đổi để thích nghi. Khi Con Người di cư mang theo truyền thống ẩm thực và nông nghiệp, một số giống nho đồng hành với Con Người tới các vùng đất mới. Những trái nho này đi qua những vùng đất hoang sơ, nơi những người trồng nho và những người định cư đã trồng thử nghiệm, và sau đó chúng phát triển mạnh ở Quê Hương mới, xa lạ và trở thành biểu tượng tự hào của Quê Hương thứ 2.

Việc hiểu những giống nho này ở nơi bản địa của chúng, và từ bối cảnh lịch sử, chính trị có thể cho ta biết về thế giới rượu vang phong phú và đầy trải nghiệm như thế nào.

Sau đây là những câu chuyện của Chúng!

CÂU CHUYỆN CỦA CARMENÈRE TRỞ THÀNH "QUỐC NHO" CỦA CHILE

Đại dịch rệp nho Phylloxera ở châu Âu là một trong những thảm kịch nông nghiệp, ảnh hưởng đến sản xuất rượu vang trong thời hiện đại. Nó đã khiến ngành công nghiệp rượu vang châu Âu sụp đổ vào những năm 1800, nhưng đối với Chile, vô tình hóa ra lại là một lợi ích. Do đó bắt đầu câu chuyện về sự thành công của Carmenère ở đó.

Người La Mã cổ đại được cho là đã mang nho đến Ý. Cha và mẹ của Carmenère là Cabernet Franc và Gros Cabernet, nhiều loại có nguồn gốc từ Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Carmenère cũng được coi là một trong những giống nguyên bản của Bordeaux, và thông qua Pháp, người ta tin rằng nó đã tạo nên tên tuổi của nó ở Chile.

Vào giữa những năm 1800, Carmenère không còn được ưa chuộng ở Bordeaux do quá khó trồng trọt. Những chùm nho cho năng suất quá thấp, nhánh cây dễ bị gãy và bệnh tật, và Carmenère khó phát triển trong khí hậu của Bordeaux.

Bởi vì một lượng lớn giống cây trồng của Pháp đã bị xóa sổ trong quá trình phá hoại của dịch rệp nho Phylloxera thế nên Carmenère được cho là đã tuyệt chủng. Tuy nhiên, vào năm 1994, thử nghiệm DNA đã chứng minh rằng Carmenère đã có mặt ở Chile, dưới vỏ bọc của Merlot. 

Nhiều nguồn thông tin nói rằng, Carmenère được đưa đến Chile trước khi dịch Phylloxera tấn công các vườn nho của châu Âu vào những năm 1850, nhưng phần lớn câu chuyện của Carmenère vẫn còn nhiều bí ẩn. Trong những ngày rối reng đó, Carmenère được đưa đến Chile với sự hiểu lầm là Merlot, do vẻ bề ngoài giống nhau quá. Sau đó, người ta biết rằng Carmenère thích khí hậu ấm áp và khô cằn, như ở Chile, nó cần nhiều thời gian để chín hơn Merlot.

Mặc dù Carmenère được coi là "quốc nho" của Chile, nhưng nó chỉ chiếm 8% diện tích trồng trên cả nước. Theo tổ chức thương mại Wines of Chile, những đồn điền đó chiếm khoảng 44.515 mét vuông trồng nho nhưng chiếm tới 80% tổng diện tích trồng nho trên toàn cầu của Carmenère. 

MALBEC ĐÃ TỎA SÁNG Ở MENDOZA - ARGENTINA NHƯ THẾ NÀO?

Dưới chân dãy núi Andes phủ đầy tuyết là Mendoza, vùng rượu vang nổi tiếng nhất của Argentina.

Có thể khó tin, nhưng Malbec đã đến Chile trước khi nó đến Argentina!

Các quan chức chính phủ Chile muốn đi theo bước chân của các dòng rượu vang tuyệt vời của Pháp (nơi được coi là đỉnh cao của ngành sản xuất rượu vang vào cuối những năm 1800). Vì vậy họ đã tìm đến các nhà nông học và nhà nghiên cứu rượu vang Pháp như Michel Aimé Pouget và Thống đốc Argentina Domingo Faustino Sarmiento để được tư vấn. Họ đã thành lập một Trung Tâm Đào Tạo Nông Học. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của trung tâm là mang nguyên liệu thực vật từ châu Âu về để phân tích và lên men.

Vào giữa thế kỷ 19, khi các nhân công của trung tâm đã được đưa đi tạm trú tại Bordeaux và mang những cành giâm về Chile. Năm 1885, một tuyến đường sắt nối Chile với Argentina chở những người nhập cư châu Âu, chủ yếu từ Ý và Tây Ban Nha, họ đã mang kinh nghiệm chuyên môn về sản xuất rượu vang đến Argentina, và đó là một trong những chìa khóa để giống nho Malbec có mặt rộng rãi khắp Argentina.

Trans-Andean rail tunnel - Tuyến đường sắt nối Chile với Argentina

Một loại nho có vỏ sẫm màu, Malbec là con cháu của 2 giống nho Magdeleine Noire và Prunelard (hai giống nho đỏ đậm mà rất ít người biết đến). Nó được cho là khoảng 2.000 năm tuổi. Vào thời Trung cổ, Eleanor xứ Aquitaine (cựu hoàng hậu Pháp) là người đã thừa kế phần Tây Nam nước Pháp từ cha mình, rất thích uống rượu vang từ những vùng mà bà cai trị. Thay vì bà chọn rượu vang từ Burgundy và Loire, thì bà lại chọn Cahors, một vùng ở Tây Nam nước Pháp gần Bordeaux được coi là quê hương đầu tiên của Malbec ở Pháp, nơi đã giúp tăng khả năng hiển thị và mức độ phổ biến của loại nho này.

Tuy nhiên, khi quá trình chuyển đổi quyền lực triều đại của Eleanor xứ Aquitaine diễn ra, nho Malbec đã di cư. Cuối cùng, nó đã hạ cánh gần đó, chính là Bordeaux, nơi nó được biết đến như một trong sáu giống nho phổ biến. Có một thời, nó là giống được trồng nhiều nhất ở Bordeaux, mặc dù nó chưa bao giờ thành công rực rỡ như Cabernet Sauvignon và Merlot. Nó luôn đóng vai trò hỗ trợ trong các phong cách pha trộn của Cabernet– hoặc Merlot thống trị phổ biến vào thời điểm đó.

Giống như Carmenère, Malbec phát triển mạnh trong thời tiết ấm hơn, nơi sương giá và ẩm ướt không đáng lo ngại. Nó hiện là giống nho được trồng nhiều nhất ở Argentina, nơi có 75% diện tích trồng Malbec trên thế giới.

Tuy nhiên, không phải lúc nào Malbec cũng được ưa chuộng ở Argentina. Theo tạp chí Hướng dẫn hiểu về rượu vang Nam Mỹ, nhiều cây nho Malbec, trong khoảng thời gian khoảng 30 năm của thế kỷ 20, đã bị chặt bỏ và trồng bằng những giống nho khác nổi tiếng hơn. Nhưng một số nhà sản xuất rượu biết rằng Malbec sẽ phát triển vượt bậc.

Và họ đã đúng!

Người tiêu dùng bắt đầu thích thú với những loại rượu Malbec do bàn tay khéo léo làm ra, nâng cao danh tiếng của loại nho này trong và ngoài nước Argentina. Nhất là những cây nho Malbec được trồng tại vùng Mendoza.

CÂU CHUYỆN CỦA NHO TRẮNG CHENIN BLANC CỦA LOIRE

Chenin Blanc đặc biệt nổi tiếng nhất từ ​​Thung lũng Loire ở Pháp. Nhờ khí hậu mát mẻ ở đây, nho duy trì nồng độ axit cao cho phép nó sản xuất ra nhiều loại rượu vang với nhiều phong cách khác nhau, từ still-wine cho đến sparkling wine, từ dry-wine cho đến sweet-wine.

Irina von Holdt, một nhà báo và là bậc thầy về rượu vang Cape ở Nam Phi, người đã lần theo lịch sử của Chenin Blanc đã rời Loire đến Nam Phi... 

Câu chuyện bắt đầu vào những năm 1600, người Hà Lan đến Nam Phi với tư cách là đối thủ cạnh tranh với các thương nhân Bồ Đào Nha. Theo von Holdt, ý tưởng ban đầu của họ là trồng các vườn nho cho các thủy thủ để cung cấp thực phẩm làm nhiên liệu cho các chuyến hành trình của họ, đồng thời tiết kiệm chi phí mua rượu ngoại từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.

Jan Van Riebeeck, một người Hà Lan, đã đi đầu trong việc trồng nho Pháp. Vùng Loire bị hấp dẫn bởi hiệp định thương mại tự do giữa các điểm đến dọc theo sông Loire vào thời điểm đó, và vì nhiều công dân của vùng đó có cùng tín ngưỡng đạo Tin lành của chính Jan Van Riebeeck

Bức tượng Jan Van Riebeeck đặt tại Cape Town, Nam Phi 

Do Jan Van Riebeeck thành lập tổ chức Vereenigde Oost-Indische Compagnie (VOC), nên những cành giâm của nho Chenin Blanc cuối cùng đã đến Nam Phi vào khoảng năm 1655. Không chỉ là loại trái cây xa lạ với đất Nam Phi, mà thực dân Hà Lan còn không biết nho đến từ đâu ở sông Loire cũng như tên gọi của chúng, vì vậy họ đã sử dụng ngôn ngữ của mình để đặt tên cho giống nho ngoại lai Chenin Blanc.

Ở Nam Phi, Chenin Blanc được biết đến với cái tên “Steen”. Có giả thuyết cho rằng cái tên 'Steen' được phát triển khi người Hà Lan định cư ở Cape đọc 'Listan' thành 'La Stan', sau đó là 'De Steen' và cuối cùng là 'Steen'”.

LÀN SÓNG DI DÂN CỦA NGƯỜI Ý, MANG PRIMITIVO ĐẾN MỸ?

Primitivo được trồng ở Ý. Zinfandel được trồng ở California. Tribidrag được trồng ở Croatia. 

Chuyện kể rằng người La Mã đã vận chuyển cây nho Crljenak từ Croatia ngày nay qua Adriatic đến Puglia, Ý, nơi có môi trường tươi tốt và khí hậu ôn hòa hơn. Những cây nho Crljenak (Primitivo) nằm trong số những cây nho được mang đến Hoa Kỳ từ bộ sưu tập những cây nho còn sót lại từ Đế chế.

Lần đầu tiên chúng đặt chân đến Long Island, New York, vào những năm 1820, khi chúng được chủ một vườn ươm mang đến từ đế chế Áo-Hung. Vài thập kỷ sau, sau khi loại nho này được phổ biến khắp vùng Đông Bắc, những cây nho này đã đến California với một chủ vườn ươm ở Massachusetts.

The Gold Rush

Sau Cơn sốt vàng California, Zinfandel (Primitivo/Crljenak) đã sinh sôi nảy nở và trở thành loại nho được trồng rộng rãi nhất của bang vào cuối thế kỷ 19.

Cho dù được gọi là Crljenak, Primitivo, Tribidrag hay Zinfandel, đó là cùng một loại nho có cùng cấu hình DNA, nhưng đặc điểm hương vị của nó chủ yếu dựa trên thổ nhưỡng và khí hậu.

Và một giả thiết khác, đầu thế kỷ 19, do làn sóng di dân, giống nho Primitivo được mang tới Mỹ và được trồng rộng rãi với cái tên Zinfandel đã trở thành trào lưu với rượu vang hậu ngọt, độ cồn cao. Thậm chí trong suốt một quãng thời gian người Mỹ đã coi Zinfandel là giống nho bản xứ của nước Mỹ. Chính điều này cũng làm cho người Mỹ cảm thấy hụt hẫng khi kết quả so sánh DNA cho thấy rằng Zinfandel và Primitivo là một loại.

----------

Dailywine - Rượu vang uống hàng ngày

 

Bài trước Bài sau